Bảo vệ quyền dân sự trong bộ luật dân sự năm 2005 - TS Nguyễn Thị Sơn

 

BẢO VỆ QUYỀN DÂN SỰ TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005

 

 

Bộ luật Dân sự đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 bao gồm 7 phần, 36 chương và 777 điều. Sau 7 năm thực hiện, Bộ luật Dân sự năm 2005 đã thực sự ảnh hưởng tích cực đến cuộc sống của người dân trong các quan hệ dân sự. Để phục vụ Hội nghị Tổng kết thi hành Bộ luật Dân sự năm 2005, tôi xin được trình bày một số ý kiến dưới góc độ nghiên cứu về chuyên đề “Bảo vệ quyền dân sự trong Bộ luật Dân sự năm 2005” với những vấn đề cần trao đổi (1) Các Nguyên tắc cơ bản liên quan đến quyền dân sự của công dân; (2) Mối quan hệ giữa Bộ luật Dân sự 2005 và các luật khác liên quan đến quyền dân sự; (3) Xác định những vấn đề phát sinh trong thực tiễn giao lưu dân sự chưa được pháp luật quy định hoặc quy định chưa rõ và cần được pháp luật điều chỉnh.

 

I.        CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN DÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN

 

Nói đến quyền dân sự của công dân là nói đến quyền công dân (civil rights)quyền tư pháp (private law)nhân quyền (human rights)các quyền tự do cơ bản của công dân (civil liberties). Vì thế bảo vệ quyền dân sự của công dân được nhà nước công nhận trong Hiến pháp, trong Bộ luật dân sự và trong các luật chuyên ngành, cụ thể như sau:

 

1)                Quyền dân sự của công dân được ghi trong Hiến Pháp năm 1992: Các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật (điều 50); Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật (điều 52); Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật (điều 57); Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân (điều 58); Học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân (điều 59); Công dân có quyền nghiên cứu khoa học kỹ thuật, phát minh, sang chế, sang kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất… Nhà nước bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp (điều 60); Công dân có quyền xây dựng nhà ở theo quy hoạch và pháp luật. Quyền lợi của người thuê nhà và người có nhà cho thuê được bảo hộ theo pháp luật (điều 62); Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội và gia đình (điều 63); công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nươc ngoài về nước theo quy định của pháp luật (điều 68); Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin, có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật (điều 69)….

 

2)                Quyền dân sự của công dân được thể hiện trong Bộ luật dân sự năm 2005: Bộ luật dân sự quy định địa vị pháp lý, chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác; quyền, nghĩa vụ của các chủ thể về nhân thân và tài sản trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động … Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn pháp lý trong quan hệ dân sự (điều 1)

 

3)                Những nguyên tắc cơ bản thể hiện trong các điều luật của Bộ luật dân sự năm 2005: Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào (điều 4); Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng (điều 5); Danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ (điều 37); Thư tín, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí mật (khoản 3, điều 33); Cá nhân có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở (điều 46); Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật (điều 50). Đối tượng của nghĩa vụ dân sự có thể là tài sản, công việc phải thực hiện hoặc không được thực hiện… chỉ có những tài sản có thể giao dịch được, những công việc có thể thực hiện được mà pháp luật không cấm, không trái đạo đức xã hội mới là đối tượng của nghĩa vụ dân sự (điều 282). Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác được tôn trong và được pháp luật bảo vệ (khoản 1, điều 9). Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của Bộ luật dân sự hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền: Công nhận quyền dân sự của mình; Buộc chấm dứt hành vi vi phạm; Buộc xin lỗi cải chính công khai; Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; Buộc bồi thường thiệt hại (khoản 2, điều 9);

 

II.     MỐI QUAN HỆ GIỮA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VÀ CÁC LUẬT KHÁC LIÊN QUAN ĐẾN QUYỀN DÂN SỰ:

 

Quyền dân sự không chỉ được bảo vệ bởi Hiến pháp, Bộ luật dân sự, mà còn được bảo vệ ở hầu hết trong các luật chuyên ngành. Trong phần nghiên cứu này chúng tôi xin đề cập và trích dẫn một số điều khoản liên quan đến quyền dân sự được nêu trong một số luật chuyên ngành tiêu biểu như sau:

 

1)                Luật Doanh nghiệp: Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong Luật này; bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh (khoản 1, điều 5); Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp (khoản 2, điều 5); Tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của doanh nghiệp và chủ sở hữu doanh nghiệp không bị quốc hữu hóa, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính (khoản 3, điều 5); Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các ngành nghề mà pháp luật không cấm; Đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành, nghề đó khi có đủ điều kiện theo quy định (điều 7).

 

2)                Luật Thương mại: Thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động thương mại (điều 10); Trong hoạt động thương mại, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào (điều 12); Thương nhân thực hiện hoạt động thương mại phải chịu trách nhiệm về chất lượng, tính hợp pháp của hàng hóa, dịch vụ mà mình kinh doanh (điều 14); Hoạt động thương mại phải tuân theo Luật thương mại và pháp luật có liên quan; Hoạt động thương mại không được quy định trong Luật thương mại và trong các luật khác thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự (điều 4); Trường hợp pháp luật không có quy định, các bên không có thỏa thuận và không có thói quen đã được thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán thương mại nhưng không được trái với những nguyên tắc quy định trong Luật này và trong Bộ luật dân sự (điều 13).

 

3)                Luật Sở hữu trí tuệ: Luật này quy định về quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và việc bảo hộ các quyền đó (điều 1); Chính sách của nhà nước về sở hữu trí tuệ: Công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân trên cơ sở bảo đảm hài hòa lợi ích của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ với lợi ích công cộng; không bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại cho quốc phòng an ninh; Khuyến khích thúc đảy hoạt động sáng tạo, khai thác tài sản trí tuệ nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; Hỗ trợ tài chính cho việc chuyển giao, khai thác quyền sở hữu trí tuệ phục vụ lợi ích công cộng, khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tài trợ cho hoạt động sáng tạo và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; Ưu tiên đầu tư cho việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, các đối tượng liên quan làm công tác bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (điều 8); Tổ chức, cá nhân có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình và có trách nhiệm tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ của tổ chức, cá nhân khác theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan (điều 9); Trong trường hợp có những vấn đề dân sự liên quan đến sở hữu trí tuệ không được quy định trong luật này thì áp dụng quy định của bộ luật dân sự (điều 5).

 

4)                Luật Lao động: Bộ luật Lao động điều chỉnh quan hệ lao động giữa người lao động làm công ăn lương với người sử dụng lao động và các quan hệ xã hội liên quan trực tiếp với quan hệ lao động (điều 1); Bộ luật Lao động được áp dụng đối với mọi người lao động, mọi tổ chức, cá nhân sử dụng lao động theo hợp đồng lao động, thuộc các thành phần kinh tế, các hình thức sở hữu (điều 2); Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo (điều 5) ; Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thỏa thuận theo nguyên tắc tự nghuyện, bình đẳng hợp tác, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, thực hiện đày đủ những điều đã cam kết; Nhà nước khuyến khích những thỏa thuận bảo đảm cho người lao động có những điều kiện thuận lợi hơn so với những quy định của pháp luật Lao động; Người lao động và người sử dụng lao động có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động. Nhà nước khuyến khích việc giải quyết các tranh chấp lao động bằng hòa giải và trọng tài (điều 9);

 

5)                Luật Bảo hiểm xã hội: Quy định về chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, quyền và trách nhiệm của người lao động, của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm xã hội; tổ chức bảo hiểm xã hội; quỹ bảo hiểm xã hội; thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội và quản lý nhà nước về bảo hiểm xã hội (khoản 1, điều 1); Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là công dân Việt Nam bao gồm: người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời gian, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên (khoản 1, điều 2); người sử dụng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác, cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động (khoản 2, điều 2); người lao động có các quyền: được cấp sổ bảo hiểm xã hội; Nhận sổ bảo hiểm xã hội khi không còn làm việc; Nhận lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời (khoản 1,2,3 điều 15). Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội từ người sử dụng lao động đóng theo quy định của điều 92 luật BHXH; người lao động đóng theo quy định của diều 91 luật BHXH; tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ; hỗ trợ của nhà nước (điều 88).

 

6)                Luật nhà ở: Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có liên quan đến sở hữu nhà ở, phát triển, quản lý việc sử dụng nhà ở, giao dịch về nhà ở và quản lý nhà nước về nhà ở (điều 2); Công dân có quyền có chỗ ở thông qua việc tạo lập nhà ở hợp pháp hoặc thong qua việc thuê, mượn, ở nhờ nhà theo quy định của pháp luật. Người tạo lập nhà ở hợp pháp có quyền sở hữu đối với nhà ở đó (điều 4); Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu nhà ở của chủ sở hữu (điều 5); Nhà ở thuộc sở hữu của tổ chức, cá nhân không bị quốc hữu hóa. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước quyết định việc trưng mua hoặc trưng dụng nhà ở thì nhà nước bồi thường cho chủ sở hữu nhà ở theo giá thị trường tại thời điểm thanh toán và tạo điều kiện để họ tạo lập nhà ở khác (điều 5); Nhà nước có chính sách về quy hoạch đất đai, tài chính, tín dụng, về nghiên cứu ứng dụng công nghệ và vật liệu xây dựng mới, về thị trường bất động sản nhà ở và thực hiện công khai, minh bạch thủ tục hành chính để tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân tham gia phát triển nhà ở theo quy định của pháp luật. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển nhà ở để bán, cho thuê, đáp ứng nhu cầu nhà ở của người có thu nhập thấp và các tầng lớp dân cư trong xã hội (điều 6); Chủ sở hữu nhà ở được thế chấp nhà ở để bảo đảm thực hiện một hoặc nhiều nghĩa vụ nếu giá trị của nhà ở đó lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ nhưng chỉ được thế chấp tại một tổ chức tín dụng (điều 114).

 

III.XÁC ĐỊNH NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁT SINH TRONG THỰC TIỄN GIAO LƯU DÂN SỰ CHƯA ĐƯỢC PHÁP LUẬT QUY ĐỊNH HOẶC QUY ĐỊNH CHƯA RÕ VÀ CẦN ĐƯỢC PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH:

 

Trong lĩnh vực kinh tế: Việt Nam là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN. Việt Nam cũng là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới – WTO từ tháng 12 năm 2006, có hiệu lực thực hiện từ năm 2007. Sau 5 năm thực hiện các cam kết về hội nhập kinh tế quốc tế, đầu tư nước ngoài FDI vào Việt Nam tăng đáng kể, kim ngạch xuất khẩu hằng năm tăng cao.  Bên cạnh sự thuận lợi về mở rộng thị trường xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang đối mặt với những khó khăn về sự cạnh tranh với những tập đoàn đa quốc gia ngay trên thị trường trong nước. Tiếp theo là sự ảnh hưởng của sự suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính toàn cầu, kinh tế Việt Nam trong 3 năm qua có rất nhiều khó khăn. Vì thế chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp khẩn cấp, nhiều giải pháp kềm chế lạm pháp, nhiều gói kích cầu, nhiều sự can thiệp trong việc trợ giá để bình ổn giá cả thị trường… từ đó ảnh hưởng đến việc thực hiện các cam kết quốc tế về pháp lý, về sự minh bạch, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế kinh doanh tại thị trường Việt Nam.

 

Những khó khăn về tài chính, về lãi suất NH tăng, sự bất ổn của thị trường chứng khoán, sự trì trệ đóng băng thị trường bất động sản kéo theo những hệ lụy dây chuyền trong các ngành nghề kinh doanh sản xuất, nhiều doanh nghiệp phá sản, đổ vỡ, từ đó phát sinh đến những việc tranh chấp trong mua bán, công nợ, vi phạm các quan hệ dân sự giữa doanh nghiệp với nhau, giữa chủ doanh nghiệp và người lao động, giữa các thành viên trong HĐQT công ty và các cổ đông. Sự tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế nằm giữa lằn ranh của tội hình sự và các quan hệ tranh chấp dân sự (ví dụ: quy tội lừa đảo, tội cố ý làm trái của Bộ luật hình sự, do vay mà không có khả năng trả nợ; Hoặc vay cá nhân/tổ chức sau để trả cho cá nhân/tổ chức trước, sử dụng tiền vay không đúng mục đích…chẳng hạn, Điều 139 Bộ luật hình sự: tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Điều 140: tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; Điều 165: tội cố ý làm trái quy định quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng; Điều 166: tội lập quỹ trái phép; Điều 179: tội vi phạm quy địnhvề cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng…). Có nhiều giao dịch đôi khi mức độ tranh chấp hoặc vi phạm liên quan đến quan hệ dân sự lại bị khởi tố, xét xử theo mức độ hình sự hóa các quan hệ dân sự làm cho đời sống cá nhân, tổ chức bị ảnh hưởng, gây hoang mang khi thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự của tổ chức và người công dân…..

 

Trong lĩnh vực thương mại, có những bất cập về điều hành chính sách vĩ mô:

 

Ví dụ về điều kiện kinh doanh vàng miếng: Căn cứ Mục 2, Phụ lục III Nghị định 59/2006/NĐ-CP của chính phủ ngày 12/6/2006 Quy định chi tiết Luật Thương mại về hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Vàng là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, không cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh; Căn cứ Nghị định số 174/1999/NĐ-CP ngày 9/12/1999 và Nghị định số 64/2003/NĐ-CP ngày 11/06/2003 (sửa đổi bổ xung một số điều của Nghị định 174/1999/NĐ-CP). Theo đó, Phạm vi điều chỉnh của Nghị định này là hoạt động kinh doanh vàng không phải vàng tiêu chuẩn quốc tế, bao gồm vàng trang sức, mỹ nghệ, vàng miếng và vàng nguyên liệu (khoản 2, điều 1); Căn cứ vào mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép sản xuất vàng miếngcho các doanh nghiệp kinh doanh vàng có đủ các diều kiện: Có đăng ký kinh doanh, sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ; Có cơ sở vật chất kỹ thuật và trang thiết bị đáp ứng yêu cầu sản xuất vàng miếng; Có cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và thợ có trình độ chuyên môn đáp ứng với hoạt động sản xuất vàng miếng. 

 

Từ các quy định trên, là luật gia, chuyên gia pháp lý, chúng tôi hiểu rằng:

 

1)     Tính pháp lý: Vàng là loại hàng hóa không nằm trong Danh mục hàng hóa, dich vụ Cấm kinh doanh (phụ lục 1, Nghị định 59/2006/NĐ-CP); Vàng cũng không phải hàng hóa nằm trong danh mục Hạn chế kinh doanh (phụ lục 2, Nghị định 59/2006/NĐ-CP); Vàng cũng không nằm trong danh mục của Mục 1, Phụ lục III là hàng hóa, dich vụ kinh doanh có điều kiện cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh. Mục 2, Phụ lục III ghi rõ vàng nằm trong danh mục Hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện không cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh.

 

Nghị định số 24/2012/NĐ-CP ngày 3/4/2012, khoản 3, điều 4 (Nhà nước độc quyền sản xuất vàng) không phù hợp với Nghị địng 174 (Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép sản xuất vàng miếng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng có đủ các điều kiện); khoản 6 điều 4 (hoạt động kinh doanh mua bán vàng miếng; sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ là hoạt động kinh doanh có điều kiện và phải được Ngân hang Nhà nước cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng hoặc giấy Chứng nhận đủ điều kiện sản xuất vàng trang sức, mỷ nghệ) không phù hợp với Nghị định 59/2006/NĐ Ban hành danh mục hàng hóa kinh doanh có điều kiện, vàng nằm trong Phụ lục 3, mục 2 Hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện không cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh.

 

2)  Tính thực tế: Vàng là loại hàng hóa rất thông dụng và có nhu cầu mua bán thường xuyên của người dân. Ngoài nhu cầu trang sức, vàng là vật dễ để dành của người dân vì không bị hao hụt bào mòn theo thời gian về chất và lượng, vàng cũng là loại hàng dễ thanh khoản, dễ mua dễ bán, khi có tiền dư dả, tiết kiệm thì mua vào để dành, khi cần tiền, ma chay, cưới hỏi, giỗ chạp thì chạy ra cửa hàng vàng đầu ngõ, hay cửa hàng vàng trong chợ là bán được ngay. Người dân thích mua vàng miếng vì dễ mua dễ bán. Mua vàng trang sức thì phải cộng thêm tiền công chế tác, khi bán ra thì khó bán hơn vì cửa hàng thu vào như hàng nguyên liệu để chế tác lại theo sở thích thời trang của người mua theo từng thời điểm, mà sở thích không phải ai cũng giống ai. Vì thế việc mua bán vàng miếng của người dân tồn tại cả ngàn đời nay.

 

3)  Chính sách độc quyền sản xuất vàng miếng, độc quyền thương hiệu SJC, có những điều khoản mâu thuẫn với luật cạnh tranh. Vấn đề quản lý nhà nước của một số bộ ngành nhiều khi không phân biệt rạch ròi giữa quản lý nhà nước và vai trò chủ quản các doanh nghiệp trực thuộc (việc trực tiếp điều hành của NHNN đối với thị trường vàng làm cho người dân không có quyền chọn lựa sản phẩm hay thương hiệu vàng mà người dân tin cậy, sự độc quyền quản lý và kinh doanh vàng dẫn đến giá vàng trong nước chênh lệch cao hơn giá vàng thế giới từ 3 đến 5 triệu đồng 1 lượng, điều đó làm thiệt hại tới quyền dân sự của người dân.

 

4)  Việc hạn chế kinh doanh vàng có khả năng tiến tới việc thống kê theo hóa đơn mua bán, số lượng vàng của người mua, sẽ dẫn đến việc vi phạm các quyền tự do cơ bản của người dân đó là các quyền tự do sở hữu hợp pháp, tự do giữ bí mật thông tin đời tư của công dân, và có khả năng dẫn tới việc tiết lộ thông tin cho các nhóm tội phạm cướp của giết người (bây giờ việc mua bán thông tin cá nhân là có thực, thông qua hệ thống quản lý mạng internet, điện thoại di động)

 

Trong lĩnh vực Công nghệ thông tin - Internet: Với sự bùng nổ về công nghệ thông tin; các trang mạng xã hội ngày càng nhiều, những người chủ của trang mạng có thể giao lưu với bạn bè khắp nơi trên thế giới và có được những thông tin bổ ích trong thế giới mạng. Nhưng từ các trang mạng này cũng phát sinh nhiều sự vi phạm liên quan đến danh dự, uy tín của các tổ chức, cá nhân. Những thông tin, hình ảnh được lồng ghép bằng các công cụ web và computer, tung lên mạng nói xấu, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của cá nhân và tổ chức (không chừa một ai, từ lãnh đạo cấp cao trong chính phủ, đến người mẫu, ca sĩ, thậm chí học sinh, thày cô giáo); Đến nay hầu như không có biện pháp gì tích cực về pháp lýtrong vấn đề này để xử lý người vi phạm, bảo vệ quyền dân sự chính đáng của người bị hại.

 

Những vấn đề liên quan đến thương mại điện tử: mua bán trên mạng, thanh toán trên mạng, giao dịch sàn chứng khoán, giao dịch sàn vàng trên mạng, bán hàng đa cấp trên mạng, chỉ khi phát hiện mới xử lý theo luật hình sự (do có yếu tố lừa đảo). Sở dĩ thương mại điện tử của Việt Nam không phát triển so với thế giới và các nước trong khu vực vì thiếu sự an toàn và hoàn chỉnh của luật pháp về quản lý khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực thương mại điện tử.

 

Những vấn đề liên quan đếnquyền sở hữu trí tuệ - bằng sang chế, kiểu dáng công nghiệp, công nghệ sinh học, quyền sở hữu thương hiệu và tên miền trên www, thời hiệu của bằng sáng chế liên quan đến hóa sinh dược và sức khỏe của cộng đồng, liên quan đến phát triển phần mềm nguồn mở, việc góp vốn bằng thương quyền, góp vốn bằng khả năng sinh lợi (good will). Hệ thống luật pháp hiện nay của Việt Nam không cho phép việc góp vốn bằng thương hiệu và khả năng sinh lợi trong tương lai, làm thất lợi cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam.

 

Những vấn đề liên quan đếnquyền và nghĩa vụ của người lao động và việc sử dụng các thông tin, bí mật kinh doanh của doanh nghiệp: Có nhiều người lao động được người sử dụng lao động tạo điều kiện cho việc học tập, nâng cao nghiệp vụ với cam kết sẽ phục vụ lâu dài cho doanh nghiệp nhưng sau khi học tập (thậm chí được đào tạo ở nước ngoài) có bằng cấp cao lại đòi hỏi thu nhập cao và tìm nơi làm việc tốt hơn. Cũng có người được doanh nghiệp tin tưởng giao vị trí then chốt của doanh nghiệp, nắm nhiều thông tin, dữ liệu, các công thức pha chế cho sản xuất hoặc những thông tin liên quan đến khách hàng, thị trường. Vì những lý do riêng đã xin nghỉ tại công ty và sau đó làm tại công ty khác hoặc tự mở công ty riêng, tự ý sử dụng các thông tin của doanh nghiệp cũ vào mục đích kinh doanh của đơn vị mới. Đây là một hành vi vi phạm quyền dân sự không chỉ là đạo đức nghề nghiệp mà vi phạm quyền sở hữu của cá nhân/ tổ chức, cần được bảo vệ bằng pháp luật.

 

Những vấn đề liên quan đến Bảo hiểm xã hội và người lao động: Do khó khăn chung của nền kinh tế, nhiều doanh nghiệp bên bờ vực phá sản, hàng tồn kho cao, nợ đọng đối với ngân hàng, khách hàng, nợ lương người lao động, nợ tiền thuế, nợ tiền đóng BHXH. Đã có những vụ việc được khởi kiện của cơ quan BHXH đối với doanh nghiệp, thậm chí áp dụng các hình thức chế tài như (1) áp dụng phạt lãi suất theo lãi suất ngân hàng (có nơi áp dụng lãi suất 17%/năm), (2) áp dụng biện pháp không thanh toán chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội cho người lao động nếu doanh nghiệp còn nợ tiền BHXH. Điều này vi phạm quyền dân sự của người lao động, vì doanh nghiệp nợ tiền BHXH là quan hệ quyền và nghĩa vụ giữa doanh nghiệp và cơ quan BHXH. Còn người lao động đã có sổ BHXH thì cơ quan BHXH phải thanh toán theo đúng chính sách đối với người lao động và luật BHXH. Ngay cả áp dụng lãi suất ngân hàng đối với tiền nợ BHXH của doanh nghiệp17%/năm cũng không có căn cứ. Trong lúc doanh nghiệp đang khó khăn, nhà nước đang tìm các biện pháp để cứu doanh nghiệp thì cơ quan BHXH lại xử phạt không có tình có lý. Người lao động tự hỏi Cơ quan BHXH sử dụng tiền BHXH, gửi vào ngân hàng lấy lãi, có quản lý minh bạch số tiền lãi gửi ngân hàng? Người lao động được hưởng gì từ những khoản lãi phát sinh từ tiền gửi ngân hàng và tiền phạt các doanh nghiệp nộp chậm tiền BHXH?

 

Bài viết trên đây chỉ nêu các sự việc dưới góc độ nghiên cứu, khảo sát ở phạm vị chuyên đề “ Bảo vệ quyền dân sự trong Bộ luật dân sự 2005” để phục vụ cho kế hoạch tổng kết việc thực hiện bộ luật dân sự 2005. Việc đề xuất định hướng sửa đổi bổ xung các quy định của Bộ luật dân sự trong các lãnh vực này sẽ được các luật gia tiếp tục nghiên cứu và trình bày bổ xung trong thời gian sớm nhất.

 

Trân trọng cám ơn sự lắng nghe của các đại biểu.

 

 

TS Nguyễn Thị Sơn

Ủy viên Ban Thường vụ, Phó Tổng thư ký Hội luật gia Việt Nam

Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý và Kinh doanh quốc tế - IBLA.

 

Lượt xem: 3759