Biến động lãi suất ngân hàng tác động đến sản xuất, kinh doanh & đời sống kinh tế - xã hội. TS Nguyễn Thị Sơn


Thông tin trong những ngày đầu tháng 6 trên internet về tình hình tài chính của các doanh nghiệp thật đáng lo ngại, thị trường chứng khoán buồn tẻ, nhiều sàn giao dịch chứng khoán rục rịch xin giải thể, giá cổ phiếu rớt thê thảm; thị trường bất động sản có nguy cơ sụp đổ, sự siết chặt tín dụng và lãi suất tín dụng cao ngất ngưởng đã làm cho nhiều dự án đình đốn không dám tiếp tục triển khai, nhiều căn hộ, nhiều căn nhà bán dưới giá gốc vẫn không có người mua, nhiều người dân có nhu cầu mua nhà để ở, dành dụm mãi mới có 30% giá trị căn hộ, vay vốn ngân hàng 70% bây giờ đành trả lại nhà, chấp nhận mất tiền đặt gốc vì không thể trả vốn và lãi ngân hàng leo thang như thế. Nhiều doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng hóa cũng lắc đầu ngao ngán, khi quyết định đầu tư hoặc mở rộng nhà máy, số đông doanh nghiệp thường sử dụng vốn tự có khoảng 25%, vay ngân hàng 75%, trong luận án khả thi của dự án ghi lãi vay vốn dài hạn 8%/năm, vốn lưu động 12%/năm. Hợp đồng tín dụng với NH có điều khoản 6 tháng điều chỉnh một lần. Ai ngờ bây giờ 20% (thậm chí 25%), chỉ một năm trả tiền lãi đã ngốn gần hết vốn tự có rồi, sản phẩm làm ra đội chi phí, giá thành quá cao, làm sao cạnh tranh nổi với thị trường,… chết thật rồi, chết đến nơi rồi…

 

Doanh nghiệp chết oan, Hệ lụy khó lường! Mà ai chết chứ!!!

 

Ngân hàng huy động vốn trong dân là 14%/năm với lý do đảm bảo lãi suất thực dương do tình hình lạm phát, đồng VNĐ mất giá so với USD, giá vàng thế giới tăng cao. Trong thực tế huy động tín dụng của nhiều ngân hang thực sự cao hơn 14%, vì thế cho vay thỏa thuận với các doanh nghiệp có nơi đến 22%/năm. Vấn đề này tôi không đồng quan điểm với các ngân hàng về lãi suất thực dương vì tỷ giá USD so với VND năm 2010 có tăng lên từ 16,900đ đến 21,000đ/1USD. Nhưng từ đầu năm 2011 đến nay tỷ giá USD đã được kéo xuống còn khoảng 20,600đ/1 USD. Vậy tại sao lãi suất tiền gửi USD có 2%/năm mà lãi suất tiền đồng vẫn huy động ở mức 14%++/năm. Điều tôi lo lắng cho cái chết báo trước là mặc dù lãi suất cao như thế mà doanh nghiệp vẫn vay, vì họ không còn con đường nào khác, đã lỡ vay rồi, đến hạn đáo hạn nợ mà hàng hóa tồn đọng khó bán, không có tiền trả ngân hàng, phải vay khoản sau trả khoản trước cộng với tiền lãi, họ cố cầm cự đến phút chót trông chờ vào một sự may mắn nào đó. Ngân hàng biết rằng lãi suất huy động quá cao nhưng vẫn phải huy động để cho doanh nghiệp tiếp tục vay, doanh nghiệp mà chết thì ngân hàng làm sao đòi nợ, ngân hàng cũng chết. Người dân gửi tiết kiệm bắt đầu nhìn vào cái gương “tham thì thâm” nên họ chia nhỏ tiền gửi nhiều nơi, gửi ngắn hạn để lỡ ngân hàng có làm sao thì rủi ro cũng ít. Vì thế gây ra sự thiếu vốn trên toàn hệ thống, lượng cung tiền không đáp ứng đủ cho yêu cầu về vốn cho doanh nghiệp.

 

Doanh nghiệp chết (nếu chỉ vài nơi thì là sự bình thường) nhưng chết hàng loạt sẽ có nhiều hệ lụy, nhà máy đóng cửa, công nhân mất việc làm, nhu cầu mua sắm giảm, cung sẽ vượt cầu, hàng hóa sẽ tồn đọng và xuống giá, tăng trưởng kinh tế sẽ thụt giảm, nhà nước sẽ thất thu thuế, an sinh xã hội sẽ là bài toán khó. Những vấn đề xã hội hóa toàn dân về hạ tầng cơ sở, về giáo dục, y tế.. cũng sẽ rất khó vì phú quý sinh lễ nghĩa, doanh nghiệp khó khăn, cán bộ công nhân viên khó khăn lấy đâu ra tiền cho con ăn học tốt, chữa bệnh trong điều kiện tốt. Lại trở về thời kỳ thắt lưng buộc bụng…

 

Quan hệ cung cầu, có người chết, thì có người hưởng lợi.

 

Các doanh nghiệp đang cắt lỗ, bán tống hàng tồn kho, sản phẩm làm ra thì đội giá do chi phí lãi vay ngân hàng, do chi phí đảy đầu vào nên không cạnh tranh nổi với hàng nhập khẩu cùng loại trong khu vực. Nhiều doanh nghiệp sản xuất cầm chừng, nhiều doanh nghiệp chuyển đổi phương thức kinh doanh, nhập hàng từ các nước lân cận về bán vì giá thành hàng hóa của các nước này rẻ hơn do lãi suất của ngân hàng Trung Quốc chỉ có 3,25%/năm, Thái Lan là 2%/năm. Vậy là khẩu hiệu Người Việt dùng hàng Việt chỉ là phong trào cho vui chứ không thực tế. Người dân thấy hàng hóa nào rẻ hơn, hợp túi tiền là mua. Những dự án bất động sản, doanh nghiệp đang cố gắng mời gọi đầu tư liên doanh để thoát ra tình trạng nợ nần. Nhà đầu tư trong nước không còn khỏe thì mời nhà đầu tư nước ngoài và các cao ốc sẽ có nhiều người nước ngoài vào ở. Nhà nước lại phải lo nhiều chính sách cho người nước ngoài tạm cư ở Việt Nam. Phức tạp quá!!!

 

Có biện pháp gì không???

 

Giải quyết các mâu thuẫn của các nhóm quyền lợi là bài toán khó, được mặt này, mất mặt kia. Nhưng theo tôi, đơn giản nhất là:

 

Ngân hàng phải có biện pháp tích cực trong việc đưa ra mức trần về lãi suất huy động, Trung Quốc 3,25%; Thái Lan 2%, Mỹ 0,5%, Nhật 1% thì Việt Nam chỉ nên 5%/năm.

 

Không thể suy nghĩ là lãi suất phải thật dương (so với lạm phát) vì: Yếu tố chính của lạm phát là đồng tiền nội tệ mất giá so với thị trường tiền tệ quốc tế. Tỷ giá USD so với VND từ cuối năm 2010 đến nay là không tăng (còn giảm một chút), Giá vàng tăng hay giảm là do quan hệ cung cầu, giá bất động sản tăng hay giảm là do quan hệ cung cầu (thực tế hiện nay là đang giảm). Chỉ số giá tiêu dùng CPI chỉ là một chỉ số tham khảo chứ không thể xem là yếu tố chính của lạm phát. Giá tiêu dùng tăng hay giảm do yếu tố cung cầu hoặc do chi phí đầu vào tăng mà lãi suất ngân hàng cao là thủ phạm làm tăng giá thành sản xuất. Lãi suất cao làm khó khăn cho sản xuất trong nước, trong khi nhu cầu tiêu dùng vẫn có, sẽ là thời cơ cho nhập khẩu hàng hóa dẫn đến tình trạng nhập siêu và nhu cầu lớn về ngoại tệ trong thanh toán hàng nhập khẩu sẽ là yếu tố chính làm tăng giá ngoại tệ chuyển đổi. Đây chính là tác nhân gây ra lạm phát.

 

Chúng ta chưa bao giờ tuyên bố chính thức là quan hệ “kim bản vị” hay “Dola bản vị” trong thanh toán, mà đó chỉ là thói quen thanh toán trong dân gian mà thôi. Các chủ trương vừa qua của Ngân hàng Nhà nước là không Vàng hóa hay Dola hóa trong thanh toán là một chủ trương đúng. Vậy thì Ngân hàng nên mạnh dạn đưa ra khung lãi xuất trần tiền gửi là 5%/năm. Lãi xuất trần cho vay là từ 6% đến 8%/năm tùy theo loại tín dụng dài hạn hay ngắn hạn. Và có biện pháp xử lý nghiêm minh với mọi sai trái dưới mọi hình thức trong việc huy động và cho vay của các ngân hang thương mại.

 

Làm được việc này sẽ có kết quả:

 

·         Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế mà hoạt động kinh doanh có vay vốn sẽ thoát chết oan.

·         Doanh nghiệp không chết thì chắc chắn ngân hàng sẽ không chết vì họ không bị mất vốn. Ngân hàng huy động thấp, thì cho vay thấp, nhưng ngân hàng vẫn có lãi.

·         Người dân gửi tiết kiệm, trước đây ngân hàng huy động lãi suất thấp họ vẫn gửi, họ đã được hưởng lãi suất cao bất hợp lý trong thời gian qua rồi, giờ lãi suất thấp họ không thích gửi thì họ rút về. Họ không mất gì cả. Lãi suất NH cao làm người dân trở nên lười tính toán, không muốn đầu tư SXKD hoặc mua cổ phiếu. Chính điều này làm cho nền kinh tế trì trệ và ảnh hưởng lớn tới thị trường chứng khoán.

·         Giảm lãi suất NH, giá hàng hóa và nhà đất sẽ giảm do chi phí giảm, người dân sẽ có điều kiện mua tốt hơn trong khả năng của họ.

·         Doanh nghiệp không chết thì nhà nước lại thu được thuế, lại chăm lo tốt an sinh xã hội cho dân, các dự án hạ tầng cơ sở lại được thực hiện

·         Điều quan trọng nhất là lực lượng lao động sẽ có việc làm, sẽ có thu nhập tốt. Họ chính là người tiêu thụ mạnh hàng hóa và nhà ở trong nền kinh tế..

 

Ghi chú:

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và mối tương quan đến lạm phát: giá tiêu dùng đối với hàng hóa thường là do yếu tố thời vụ. Ví dụ: mùa thu hoạch trái vải rô lên trong 2 tháng, lúc này không thu hoạch thì trái chín quá sẽ rụng, mà thu hoạch cùng lúc, trái vải được mùa sẽ thu hoạch nhiều, bán không xuể phải hạ giá, nên hàng năm mùa này Trung Quốc thường ép giá với người trồng trái vải. Giá trái vải bị thấp thê thảm. Nhưng 4 tháng sau khi mùa vải hết, giá trái vải tăng. Điều này chứng minh giá cả qua quan hệ cung cầu, chẳng liên quan gì đến lạm phát. Hoặc ngày 27 Tết giá hoa Mai, hoa Đào tăng cao, nhưng sau Tết chẳng ai mua dù hoa Mai, hoa Đào có đẹp cách mấy. Ngày 8.3 và ngày lễ tình nhân hoa Hồng tăng cao, sau lễ lại giảm bình thường. Những giá cả tăng và giảm này chẳng ăn thua gì đến lạm phát. Vì vậy tôi phản đối mạnh mẽ với khái niệm chỉ số giá tiêu dung CPI tăng là yếu tố chính của lạm phát.

 

6 tháng đầu năm 2011 có tháng 1 là tháng phục vụ tết, nhu cầu mua sắm của người dân tăng nên giá tăng. Điều này hoàn toàn không phải do lạm phát.

 

10/7/2011

TS Nguyễn Thị Sơn - Phó Tổng thư ký Hội Luật gia Việt Nam

Viện trưởng Viện Khoa học Pháp lý IBLA

 

Lượt xem: 5594