
Việt Nam - Chiến lược phát triển kinh tế - vai trò của giáo dục & đào tạo - TS. Nguyễn Thị Sơn,
Nghiên cứu kinh tế vĩ mô đã có nền tảng từ các nước công nghiệp lớn trên thế giới, trong bài này với chủ đề “Việt Nam và chiến lược phát triển kinh tế - vai trò của giáo dục và đào tạo”, chúng tôi muốn đề cập đến mối liên hệ về kinh tế vĩ mô đối với Việt Nam, một quốc gia đang phát triển.
Trước tiên tôi muốn mô tả về thuật ngữ “Quốc gia đang phát triển”, trong một số sách giáo khoa dùng thuật ngữ “quốc gia kém phát triển”. Vậy đặc tính quan trọng nhất của các nước đang phát triển (hay kém phát triển) là những người có thu nhập bình quân đầu người thấp, người dân ở các nước đang phát triển thường có sức khỏe kém và tuổi thọ ngắn, và nhiều người có mức độ biết chữ thấp.
Việt nam là quốc gia đang phát triển. Tuy GDP hằng năm có tăng nhanh trong hai thập niên qua, nhưng thu nhập bình quân của người dân vẫn thấp, chỉ khoảng 1000 đến 1400 USD/người (hiện nay mức lương thấp nhất được quy định tùy theo địa phương là từ 2.000.000 đến 2.500.000đồng/tháng). Tuổi thọ bình quân của một người bình thường là thấp so với một quốc gia tiên tiến, nhiều trẻ em đã chết trước khi đến tuổi trưởng thành. Nhiều người làm việc rất nhiều giờ trong các lĩnh vực không có hỗ trợ của máy móc (công nhân xây dựng). Vào ban đêm nhiều người ngủ trên một chiếc chiếu trong các phòng trọ thuê tạm gần các khu công nghiệp. Nhiều gia đình công nhân sống cùng trong ngôi nhà chỉ một phòng cùng với cha mẹ, thậm chí cả ông bà và năm đứa con . Nhà ở của nhiều người công nhân không có điện, nhà vệ sinh riêng, hệ thống cung cấp nước ngọt không có, phải hứng nước mưa hay sử dung chung hệ thống nước giếng của khu phố. Còn người nông dân ở vùng xa, vùng cao, vùng hải đảo thì sao? Chúng ta hãy tưởng tượng thiếu đủ thứ, con em họ không được đi học, nếu đi học thì đi thật xa, lội bộ đường đất, vượt qua sông, qua suối.
Những tiện nghi trong các gia đình công nhân nghèo hầu như không có gì, có lẽ một cái bàn và một đài phát thanh cũ, không biết nhiều về thông tin bên ngoài. Phương tiện đi lại thiếu thốn, nhiều bệnh tật trong những ngôi làng hẻo lánh, bác sĩ có trình độ thường tập trung ở thành thị phục vụ sức khỏe cho những người có khả năng về thu nhập hơn. Những người nghèo sống không đủ ăn thì làm sao có nhu cầu mua sắm, có nhu cầu về dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục. Đa số người dân làm nghề nông, nhưng vẫn đói và thức ăn chủ yếu là thức ăn thô như gạo, không có hy vọng nhìn thấy cuộc sống được cải thiện.
I. CÁC YẾU TỐ CHO SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM
Để hiểu lý do tại sao một số quốc gia đạt được tiềm năng của họ trong khi những quốc gia khác như Việt Nam thì khó khăn, chúng ta cần phải xem xét một cách hệ thống hơn quá trình phát triển kinh tế . Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào bốn yếu tố: Nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, hình thành vốn và công nghệ .
1) Hãy bắt đầu với nguồn nhân lực, và ở đây chúng ta có hai chiều: số lượng lao động và chất lượng lao động.
Về vấn đề số lượng vì sự tăng trưởng dân số nhanh chóng, nhiều nước nghèo như Việt Nam ngay cả khi GDP tăng lên, cũng không thoát khỏi tỷ lệ sinh đẻ cao và thu nhập trì trệ. Chúng ta có thể dự đoán rằng dân số thế giới sẽ tăng gấp đôi trong thế kỷ tới, hầu hết sự gia tăng này dự kiến sẽ ở các nước thu nhập thấp và trung bình của thế giới. Tuy nhiên, mức độ sinh đẻ cao như vậy, sẽ là vô cùng khó khăn cho các nước nghèo để thoát ra khỏi sự đói nghèo. Vì vậy, những chiến lược có thể được áp dụng để trực tiếp kiểm soát sự tăng trưởng đó là chiến lược giáo dục, trợ cấp và kiểm soát sinh đẻ. Ở châu Á, Trung Quốc đã đặc biệt mạnh mẽ trong việc hạn chế tăng dân số bằng cách đặt kế hoạch chặt chẽ về số sinh, và áp đặt trừng phạt kinh tế bắt buộc đối với những người vi phạm. Ở các nước đang phát triển, lợi ích cận biên là tương đối lớn, bởi vì đưa con sinh thêm trở thành một thành viên để hỗ trợ gia đình và sự an tâm cho cha mẹ trong những năm về già của họ (quan niệm nhiều con, nhiều của). Tuy nhiên, trong các nước công nghiệp giàu có, chi phí cận biên của trẻ em lớn hơn nhiều so với các nước đang phát triển, như chi phí cao của việc chăm sóc dinh dưỡng và giáo dục, đồng thời có mạng lưới chăm sóc cho người già, trong các hình thức quỹ hưu trí và các chương trình chăm sóc sức khỏe. Như vậy, theo quan điểm của quốc gia đã phát triển, mọi người sẽ chọn có ít con hơn. Thực sự ở các nước như Mexico, Hàn Quốc và Đài Loan, chúng ta đã thấy tỷ lệ sinh giảm mạnh khi thu nhập của họ tăng và dân số của họ nhận được giáo dục nhiều hơn .
Về chất lượng nguồn nhân lực, vai trò quan trọng của lao động có tay nghề cao đã được chứng minh trong các lĩnh vực khai thác, kinh tế, dịch vụ, quốc phòng. Nhưng ở Việt Nam, thông qua các phương tiện thông tin, chúng ta được biết, nhiều nhà máy, máy móc sản xuất đã rơi vào tình trạng bỏ hoang, chùm chăn vì lực lượng lao động của chúng ta không có đủ các kỹ năng cần thiết để vận hành và bảo trì những thiết bị hiện đại đã đầu tư. Theo đó, chương trình phát triển kinh tế có đề cập đến giáo dục, đào tạo công nhân lành nghề, cũng như cải thiện an toàn và sức khỏe người lao động đã được các ngành quan tâm. Người lao động có thể học cách sử dụng vốn hiệu quả hơn, áp dụng công nghệ mới, giảm số ngày bệnh tật hoặc chấn thương lao động, và có kinh nghiệm tốt hơn từ những sai lầm của họ. Có nhiều doanh nghiệp quan tâm việc học tập tiên tiến trong khoa học, kỹ thuật, y học, và quản lý, bằng cách gửi những lao động tốt nhất của họ ra nước ngoài để học hỏi những tiến bộ mới nhất. Tuy nhiên, có một dấu hiệu cảnh báo phải được nhận thức của sự chảy máu chất xám, người công nhân có khả năng được mời gọi ở lại nước có mức lương cao .
2) Yếu tố thứ hai trong tăng trưởng kinh tế: tài nguyên thiên nhiên .
Có lẽ tài nguyên thiên nhiên có giá trị nhất của Việt Nam là đất canh tác . Phần lớn lực lượng lao động trong nước được sử dụng trong nông nghiệp. Do đó, việc sử dụng hiệu quả đất đai, sử dụng phân bón, cải thiện đất trong việc tăng sản lượng. Đồng thời, mô hình sở hữu đất đai là chìa khóa để nông dân với động lực làm giàu đầu tư vào vốn và công nghệ sẽ làm tăng năng suất đất đai của họ. Khi nông dân sở hữu đất đai riêng, họ có động lực tốt hơn để cải thiện chất lượng của đất, chẳng hạn như hệ thống tưới tiêu, và thực hiện các hoạt động bảo tồn môi sinh, môi trường phù hợp. Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên như đất đai và khoáng sản mà người dân sở hữu còn manh mún, được phân chia giữa các khu vực dân cư. Một số nhà kinh tế nghi ngờ rằng tài nguyên thiên nhiên từ dầu, khoáng sản có phải là một sự thịnh vượng hoàn toàn cho Việt Nam. Họ đã đưa ra những bài học kinh nghiệm: tại sao một số quốc gia như Hoa Kỳ, Canada và Na Uy đã sử dụng tài nguyên thiên nhiên của họ để tạo cơ sở vững chắc của việc mở rộng công nghiệp, trong khi đó, nghiên cứu thông tin ở một số nước đang phát triển, sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên đã được khai thác nắm giữ bởi các nhà lãnh đạo tham nhũng và bè phái, chẳng hạn như Nigeria và Zaire giàu có về tài nguyên khoáng sản, đã không chuyển đổi tài sản này vào sản xuất hoặc vốn hữu hình, mà những nhà cầm quyền đem sự giàu có từ tài nguyên đó gửi vào tài khoản riêng ở ngân hàng nước ngoài.
3) Liên quan đến yếu tố thứ ba trong sự phát triển là sự hình thành vốn. Một nền kinh tế hiện đại đòi hỏi một loạt các hàng hóa vốn. Tuy nhiên, cách duy nhất các nước có thể nhanh chóng làm tăng sâu sắc thêm vốn cổ phần của họ là bởi sự giảm chi tiêu. Vì giảm chi tiêu hiện tại để thiết lập các quỹ phát triển tái đầu tư, dự phòng rủi ro, dự trữ tiêu dùng trong tương lai. Vai trò của sự hình thành vốn trong tăng trưởng kinh tế không thể phủ nhận. Các lãnh đạo nhiều quốc gia chủ trương tăng trưởng đầu tư ít nhất 20 % sản lượng trong hình thành vốn . Ngược lại, các nước nông nghiệp nghèo như Việt Nam thường có khả năng tiết kiệm và đầu tư chỉ có 5% thu nhập quốc dân. Hơn nữa, phần lớn các khoản tiết kiệm này để phục vụ cho sự gia tăng dân số với nhà ở và các chính sách phúc lợi. Cụ thể như các doanh nghiệp Việt Nam do thu nhập doanh nghiệp thấp sau khi trừ thuế thu nhập doanh nghiệp, phải đảm bảo lợi tức chia cho cổ đông cao hơn lãi suất gửi tiết kiệm ngân hàng, nên các quỹ dành cho phát triển sản xuất rất thấp. Kết quả là đầu tư và tái đầu tư quá thấp cho sản xuất nên không thể phát triển kinh tế nhanh chóng được. Tuy nhiên cũng lưu ý đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, vốn sở hữu là của chủ doanh nghiệp, lợi nhuận của họ không bị áp lực chia cho cổ đông nên toàn bộ lợi nhuận của họ dành hết cho đầu tư mở rộng kinh doanh sản xuất.
4) Yếu tố thứ tư của tăng trưởng kinh tế là thay đổi công nghệ, Việt Nam đang phát triển với nhiều lợi thế tiềm năng, Chúng ta có thể được hưởng lợi bằng cách dựa vào các tiến bộ công nghệ của các nước tiên tiến đã đi trước. Chúng ta không cần phải tìm định luật Newton để khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn, chúng ta có thể đọc về định luật này trong bất kỳ cuốn sách vật lý nào. Chúng ta cũng không phải lặp lại cuộc cách mạng công nghiệp, chúng ta có thể mua máy kéo, máy tính, điện, khung dệt bởi các thương gia lớn của Nhật Bản và Hoa Kỳ, minh họa các mô hình này trong lịch sử phát triển của họ. Nhật Bản tham gia cuộc đua công nghiệp vào cuối thế kỷ 19, họ đã gửi sinh viên ra nước ngoài để nghiên cứu công nghệ phương Tây. Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện vai trò tích cực trong việc thúc đẩy tốc độ phát triển và xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sắt và các tiện ích công cộng. Trường hợp của Hoa Kỳ là một ví dụ tương tự như vậy, những phát minh quan trọng liên quan đến ô tô có nguồn gốc gần như độc quyền ở Châu Âu. Ford và General Motors đã áp dụng các sáng chế của Châu Âu và nhanh chóng trở thành các nhà lãnh đạo thế giới trong ngành công nghiệp ô tô. Từ lịch sử của Nhật Bản và Hoa Kỳ, có thể xuất hiện sự thích nghi của công nghệ nước ngoài là một công thức dễ dàng để phát triển ở Việt Nam.
Tuy nhiên, chúng ta có thể nói rằng, chỉ cần đi ra nước ngoài, sao chép các phương pháp hiệu quả hơn, đưa vào áp dụng hiệu lực ở nước nhà, và ngồi chờ cho sản lượng tăng thêm? Thay đổi công nghệ không phải là đơn giản, chúng ta có thể gửi một cuốn sách giáo khoa về kỹ thuật hóa học về nước. Nhưng nếu không có nguồn nhân lực phù hợp, các nhà khoa học có trình độ cao, thì kỹ sư và các nhà doanh nghiệp thậm chí không thể bắt đầu suy nghĩ về việc xây dựng một nhà máy hóa dầu hiện đại như thế nào. Câu hỏi đặt ra là Vai trò của Giáo dục và đào tạo?
II. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐÀO TẠO:
Vấn đề cơ bản là vòng luẩn quẩn của nghèo đói mà một số quốc gia rơi vào trạng thái luẩn quẩn, đó là dân số tăng nhanh dẫn đến thu nhập thấp, vốn thấp dẫn đến mức thấp của tiết kiệm và mức thấp của tổng cầu. Điều này sẽ dẫn đến các mức thấp của đầu tư trong cả vốn vật chất và con người. Kết quả là năng suất thấp và thu nhập thấp, vốn thấp và vòng quay lại tiếp tục như thế, vì nghèo được đi kèm với các mức thấp của giáo dục, và đào tạo.
Những rào cản trong việc tiếp cận các công nghệ mới và phát minh mới. Những rào cản của nghèo đói thường đòi hỏi một nỗ lực trên nhiều mặt trận. Một số nhà kinh tế đề nghị một sự thúc đẩy lớn để phá vỡ vòng luẩn quẩn đó là cải thiện sức khỏe và giáo dục, phát triển kỹ năng và hạn chế tăng dân số.
Làm thế nào chúng ta có thể giải thích rằng một quốc gia như Nhật Bản với một cấu trúc xã hội cứng nhắc đã trở thành một trong những nền kinh tế hiệu quả nhất trên thế giới ? Hãy bắt đầu với các vấn đề dựa trên một nền kinh tế công nghiệp, nông nghiệp của Việt Nam, một trong những lựa chọn quan trọng nhất các nhà lãnh đạo của Viêt Nam: có thể theo đuổi một chiến lược công nghiệp hóa nhanh chóng để đạt được tăng trưởng, hay chỉ đơn giản là mở rộng và cải thiện cơ sở nông nghiệp?
Trong quá khứ, sự lựa chọn đã được giải quyết có lợi cho sự nghiệp công nghiệp hóa là tìm cách bắt chước những thành công của các quốc gia công nghiệp hóa. Tuy nhiên ngày nay, bài học của thập kỷ là nỗ lực đẩy nhanh công nghiệp tại các chi phí của nông nghiệp đã khiến nhiều nhà phân tích phải suy nghĩ lại vai trò của nông nghiệp. Đây là vấn đề quan trọng, công nghiệp đòi hỏi vốn lớn và dài hạn. Công nghiệp thu hút người lao động vào các thành phố đông đúc và nó cũng thường tạo ra mức thất nghiệp cao. Trong khi đó, nâng cao năng suất ở các trang trại thường đòi hỏi ít vốn trong khi có thể cung cấp việc làm cho lao động nông nhàn dư thừa theo thời vụ.
Vấn đề quan trọng tiếp theo trong chiến lược phát triển của Việt Nam là nền kinh tế dựa vào quốc doanh so với nền kinh tế theo định hướng thị trường. Các yếu tố then chốt của một chính sách theo định hướng thị trường bao gồm định hướng và chính sách thương mại ra nước ngoài; mức thuế thấp và ít hạn chế thương mại qua định lượng; chương trình xúc tiến thương mại của doanh nghiệp nhỏ và vừa; thị trường làm việc tốt nhất trong môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, trong đó thuế có thể dự đoán và lạm phát thấp. Tuy nhiên, vấn đề ở đây là quan điểm của các nền văn hóa của nhiều nước đang phát triển xem hoạt động của thị trường như kẻ thù không đáng tin cậy; sự cạnh tranh giữa các công ty hoặc hành vi lợi nhuận là trái với thông lệ truyền thống, tín ngưỡng tôn giáo. Kinh nghiệm cho thấy sự đánh giá đúng về nền kinh tế, cách thức hiệu quả nhất để quản lý nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng là sự thúc đảy về giáo dục và đào tạo.
Chiến lược phát triển với sự cởi mở của một nền kinh tế tự do thương mại và hội nhập kinh tế toàn cầu. Ví dụ, nếu chúng ta theo đuổi một chiến lược thay thế nhập khẩu bằng cách thay thế hầu hết hàng nhập khẩu với sản xuất trong nước? Hoặc chúng ta sẽ theo đuổi một chiến lược của sự cởi mở hướng ra bên ngoài? Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore đã có một chiến lược thị trường cởi mở: chính sách giữ hàng rào thương mại thực tế bằng cách dựa chủ yếu vào thuế chứ không phải là hạn ngạch và các rào cản phi thuế quan khác, giảm thiểu sự can thiệp vào dòng vốn và cho phép cung cấp các hoạt động vốn tại thị trường tài chính. Các quốc gia này không còn sự độc quyền nhà nước về xuất khẩu và nhập khẩu. Nhà nước giữ quy định mức trần của chính phủ về nhu cầu cần thiết cho một nền kinh tế thị trường có trật tự, chủ yếu dựa vào hệ thống thị trường tư nhân lợi nhuận và thua lỗ để hướng dẫn sản xuất, chứ không phải tùy thuộc vào quyền sở hữu công và kiểm soát của hệ thống kế hoạch của chính phủ. Bằng cách tiết kiệm phần lớn thu nhập quốc gia của họ thay vào đó, sự cởi mở và hướng ra bên ngoài cho phép các doanh nghiệp nước ngoài gặt hái quy mô kinh tế và lợi ích của chuyên môn hóa quốc tế, do đó làm tăng việc làm, sử dụng có hiệu quả nguồn lực trong nước, tăng trưởng năng suất nhanh chóng và cung cấp lợi ích to lớn trong đời sống .
Tóm lại, chiến lược thành công của phát triển kinh tế là những gì? Đó là các biện pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; đó là các quy định rõ ràng và minh bạch của pháp luật, đó là các chính sách của nền kinh tế mở đối với thương mại quốc tế, sự thành lập ngân hàng trung ương độc lập để tránh lạm phát siêu, thiết lập chính sách tỷ giá hối đoái thực tế để ngăn chặn những cú sốc tiền tệ lớn, tư nhân hóa các ngành công nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả và sự thúc đẩy tinh thần kinh doanh của doanh nghiệp; đó là sự kiểm soát tăng dân số, việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bằng việc tăng cường giáo dục và đào tạo trong tất cả lãnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và các kỹ năng hội nhập kinh tế quốc tế.
TS. Nguyễn Thị Sơn,
Phó Tổng thư ký Trung ương Hội Luật gia Việt Nam,
Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý và kinh doanh quốc tế
.jpg)

